Vấn đề văn bản trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”
admin - on 2020-11-06
HàThịThanhVân
– Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác đã không chú ý đúng mức đến sự khác biệt này. Chúng tôi cho rằng cần nghiên cứu văn học người chết trong văn học. Bởi vì tác phẩm này sẽ cung cấp cho bạn một hướng độc đáo để đánh giá các tác phẩm và kỳ quan văn học của Ruan Tuan. Ngược lại, chúng tôi sẽ liệt kê nhiều lý do để chứng minh rằng Nhiếp Tuấn không chỉ thêm bớt, sửa lại câu văn, mà thực sự là tác giả viết lại lời cuối của mình [1].
So sánh hai văn bản này, chúng ta nhận thấy những điểm khác biệt sau: – 1. Về tên truyện
Chữ người tử tù xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1940 do chính Tuân Tuấn viết. Năm 1982, tuyển tập của Nguyễn N ra đời, và thuật ngữ “cái chết xác đáng” luôn tồn tại. Vì vậy, sự khác biệt giữa tiêu đề của bức ảnh đầu tiên và tiêu đề của những bức ảnh tiếp theo đã trở thành một thực tế không thể phủ nhận. Câu hỏi còn lại là: chúng khác nhau như thế nào? Có ý nghĩa gì?
Tôi biết rằng sự khác biệt giữa “Last Word” và “Death Wanted” không chỉ ở ngôn ngữ, mà chủ yếu là cách thể hiện.
Dòng tiêu đề đầu tiên mang đậm tính báo chí và tốt cho thông tin. Tiêu đề thứ hai có xu hướng thể hiện thiết kế. Tiêu đề đầu tiên tập trung vào “từ” và “từ” trở thành sự kiện; tiêu đề thứ hai tập trung vào mối quan hệ giữa từ và người, và giữa từ và cảnh. Nguyễn Tuân tập trung vào nhan đề thứ nhất nhấn mạnh tính chất của sự kiện, Nguyễn Tuân tập trung vào nhan đề thứ hai nhấn mạnh yếu tố ngữ cảnh. Mỗi danh hiệu đều có một vẻ đẹp riêng về ý nghĩa.
2. Về cốt truyện
Qua so sánh hai văn bản trên, chúng ta có thể thấy trong văn bản Chữ người tử tù, Tuân Tuân đã xóa bỏ rất nhiều thông tin, tình tiết chi tiết. Ví dụ, ở dòng cuối cùng của văn bản, văn bản có nội dung “Ngồi đó, đầu tôi đã bạc và râu đã đổi màu. Những nếp nhăn trên khuôn mặt buồn giờ đã không còn. Đây chỉ còn là mặt ao.Chắc là không. Bình tĩnh, thận trọng và mềm mại ở đó, tỏa ra hương thơm thoang thoảng trong một thời gian ngắn. Bạn muốn biết tại sao không có đầu trâu, trán dơi và mặt khỉ trong nhà tù. Trong thế giới từ thiện của Cinderella, khuôn mặt bướng bỉnh và thoải mái ấy quả thực là một điều kỳ diệu. Trong giới quan chức, kỳ tích này không thể dung thứ cho cấp trên, mà lại là những kẻ tiểu nhân. Tuy nhiên, trong xóm trọ của tử tù, Tuân Tuấn chỉ nói được ba chữ: “Người ngồi đó, đầu bạc trắng, râu ria lởm chởm. Những nếp nhăn trên khuôn mặt trầm tư giờ đã không còn. Thanh xuân còn gì bằng. Thủy chung, trầm lặng và thận trọng Rõ ràng, Nhiếp Tuấn đã xóa bỏ hai chi tiết: nội tâm lưỡng lự và đối thoại tư tưởng để nhấn mạnh diện mạo và tâm trạng hiện tại của quản ngục .Về văn bản, Chữ người tử hình không xét đến những khía cạnh này. Trong văn bản của bài báo trước, sau khi quản ngục hỏi Hứa Cao: “Anh muốn gì, hãy nói cho tôi biết”, người kể chuyện lập tức đưa ra nhận xét để giải thích câu trả lời của anh Hứa. Qua đánh giá của người kể chuyện, chúng ta có thể thấy Hứa Cao có tính cách của Từ Hải, giọng của Ruan Tuan rất gần với giọng của Tarkiu, chỉ muốn đổi địa bàn, chặt núi làm đôi, xây dựng vương quốc riêng ở góc trời… Mr. Ở trước mặt hắn, có một người phi thường. ” Với thuật ngữ “án tử hình”, giá này không còn nữa. Lần này tôi nghĩ rằng bản sửa đổi văn bản của Ruan Tuan là rất hợp lý. Vì khi xóa những dòng chữ sáo rỗng như vậy, đoạn văn sẽ bớt lộ liễu hơn mà nội dung lời thoại cũng nổi bật hơn.
Một số sự kiện bị bỏ qua trong văn bản:7901; Trong Tử tù, chúng ta còn thấy Nhiếp Tuấn được bổ sung nhiều chi tiết mới. Chẳng hạn, ở câu cuối tác giả viết: “Ngày mai ta sẽ tìm ra chữ gì”, nhưng trong tử tù lại thành chữ “để ngày mai ta lại tìm chữ xem chuyện gì xảy ra”. Tôi nghĩ Ruan Tuan đã thể hiện sự khéo léo của mình ở đây. Bởi thông qua việc lặp đi lặp lại các sự kiện, Nhiếp Tuấn đã nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn và nghiêm túc của người tù.
Dòng cuối ghi: “… từ hôm nay, cơm rượu vẫn được giao thống nhất, và chữ tử hình ở giữa đoạn văn là so với thế hệ mai sau, nhưng thêm một chi tiết:” … từ hôm nay , Cơm rượu vẫn giao đều hơn trước, đẻ nhiều con hơn, nhưng hắn không đặt chân vào phòng huấn luyện của mình. “Nếu đọc nhanh, nội dung thêm vào cũng không có vấn đề gì. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, rõ ràng là người kể chuyện Tôi rất tâm đắc với thái độ và cách cư xử của viên quản ngục, không nên lời như lời ông Người kể tái hiện tác dụng của câu mở này thể hiện nét duyên dáng đặc biệt của nhân vật Cỏ.
Trong khác Trong đoạn văn, dòng cuối ghi như sau: Cái chết chờ đợi giây phút cuối cùng sẽ kéo dài ngàn năm Đoạn văn của người tử tù cho biết thêm: “Trong luận văn, người tử tù chờ đợi giây phút cuối cùng của ngày đêm giống như một lời thơ cổ. Vẫn mạnh mẽ như vậy. “Một ngàn năm xa.” Chi tiết “bài thơ cổ” giúp tạo nên không khí cổ kính mang âm hưởng lịch sử. Từ “ngu ngốc” chịu trách nhiệm cho việc kích hoạt cảm xúc của nhân vật. Những người tử tù đã nhấn mạnh vẻ đẹp và giá trị của Hua ana. Ngoài ra, hãy chú ý miêu tả hình ảnh từ ngữ liên quan đến nhân vật. Những ô chữ in nghiêng sau ghi rõ: “Biết đọc sách thiêng, ngày tháng, điều ước của p này rằng một ngày nào đó người lính gác Lisson sẽ treo cổ tự vẫn trong nhà mình.Ồ, câu đó do ông Cao Huấn viết. Chữ ông Huấn Cao rất đẹp và vuông vắn. Còn ông Cao Hứa vốn nhỏ con, ngoài người bạn tâm giao, ông ít khi nhận lời. Treo tờ tiền của ông Huấn là của cải thế gian. Quản ngục buồn nhất là nắm tay Huấn Cao dưới trướng, nhưng tôi không biết nói sao đây … “
Dòng cuối không lý tưởng hóa phương pháp trên mà chỉ tập trung vào Nêu mong muốn và tình cảm của viên quản ngục Cố đọc lại bài gốc, “Biết ngày nào bắt đầu đọc sách thánh này, ước nguyện của viên quản ngục là một ngày nào đó dưới tay ông Huấn Cao được treo vài chữ trong nhà mình. “Thuộc hạ rất khó chịu với một ông Cỏ trong tay, nhưng không biết tìm chữ” “. Qua đây, chúng ta có thể thấy Nhiếp Tuấn ngày càng quan tâm đến nhân vật chính mà hắn bắt được.” Phong cách viết và một số kỹ năng hàng đầu để trang trí nhân vật. Tôi nghĩ sức hấp dẫn hay cảm giác thân thuộc của Ruan Tuan một phần bắt nguồn từ phong cách luôn đẩy mọi thứ đến giới hạn. “Tôi thấy bối rối ở đây, tôi đề nghị anh Quân đổi nghề. Đây không phải là nơi treo tấm lụa trắng với nét chữ sáng màu này. Tôi có thể tìm thấy ở đâu tốt như vậy? Bạn có thấy mùi bát mực bốc lên không? Tôi đề nghị anh Quân về nước chơi trò chơi xếp chữ. Rất khó để duy trì một mối quan hệ thiên chức lành mạnh ở đây.
Người cai ngục đã xem và nói vài lần. Anh rất vui khi giữ lời quý giá này. , Nỗi buồn mênh mang thấm vào niềm vui của viên quản ngục … … … … trong vài ngày …; “
(dòng cuối) [2]
Sau đó anh ấy đã sửa rất nhiều. Xin cho ví dụ:
” Điều này rất khó hiểu. Tôi đề nghị giáo viên thay đổi điều kiện ăn ở. Nơi đây không phải là nơi treo dải lụa trắng với những nét chữ vuông sáng sủa mà nó thể hiện cho hoài bão của đời người. Giáo viên đâu rồi? Bạn đã mua nó? Đẹp và thơm. Bạn có thấy chất thơ dâng lên trong bát mực không? … Tao nói với mày, thằng Quân nên về quê đi, dẹp cái nghề này đi mà nghĩ chơi chữ, khó mà dưỡng được thiên lương và tạo dựng cuộc sống lương thiện đây-ba người giận dữ nhìn nhau, rồi lại Nhìn bên kia-trại giam bị đòn đau, chào tù binh, siết tay, nói một câu, nói mà nước mắt giàn giụa: Thôi: xin bái kiến ”
(Tuyên án Từ tử hình) [3]
Tôi quyết định đổi từ này để giúp Ruan Tuan ”vì cách chọn từ cuối của anh ấy hay hơn và thú vị hơn từ cuối cùng. Nói cách khác, nghĩa của từ trước không bằng nghĩa sau, nghĩa không sâu, ví dụ từ “nghề nghiệp” có nghĩa đặc biệt, nhưng từ “cư trú” đặt trong ngữ cảnh của án tử hình lại có nghĩa rõ ràng. Bản chất tượng trưng, chẳng hạn như các từ “kiếm được” và “mua”, hoặc “tốt” và “tốt” là có mùi thơm. ”Chúng khác nhau về tư tưởng và âm nhạc.
Chúng tôi đã nhấn mạnh ở trên: Sửa lại dòng cuối cùng, mục tiêu của Ruan Tuan là mô tả từ, và chữ in đậm là giá trị. Ở đây phải nói thêm rằng Nhiếp Tuấn cũng rất quan tâm đến nội dung tư tưởng của hình tượng. Ở câu cuối, người kể đã dừng việc miêu tả cảnh vật xung quanh sau khi yêu cầu cây cỏ thần cảnh báo người bảo vệ. Ngược lại, khi Ruan T viết từ “kết án”, anh ta đã miêu tả cảnh cháy và “cảnh không nói nên lời” giữa ba nhân vật. Khi tù nhân ngừng nói, thuật ngữ “bị kết án và giết người” kết thúc. Gi & ograTừ cuối cùng diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật.
3. Về mặt cảm xúc và nhân vật, “The Book of Death Row” khôi phục lại không khí xưa của thời kỳ đó. Nó vẫn tạo được tiếng vang với công nghệ hiện đại. Kỹ thuật này rõ ràng nhất trong phân tích tâm lý nhân vật. Về vấn đề này, tôi muốn đặc biệt chỉ ra rằng nếu chúng ta theo dõi tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong truyện, chắc chắn chúng ta sẽ có cơ sở khác để hiểu rằng Nhiếp Duẫn đã viết lại đoạn cuối một cách căn bản. Ngoài những đoạn văn trên, những đoạn văn này còn thể hiện tính cách của nhân vật. Dưới đây chúng tôi sẽ thảo luận về các ví dụ khác.
Thứ nhất: Về viên quản ngục
Dòng cuối ghi: “Tôi nghĩ điều này còn thảm hại hơn”. Thuật ngữ “bị kết án tử hình” hơi khác một chút: “Tôi xin lỗi”. Hoặc đổi “tù nhân lo âu ôm chùa” thành “tù nhân bối rối ngồi ôm chùa”. Không cần phân tích thêm để thấy rằng Ruan Duan đã thay đổi cấu trúc của câu, nhưng ý nghĩa của nó cũng thay đổi. Tôi nghĩ câu sau cũng chắc chắn hơn, ngắn gọn hơn và rõ ràng hơn câu trước.
Bản án tử hình vừa được viết: “Những nếp nhăn trên khuôn mặt trầm tư đã biến mất.” Nhưng dòng chữ cuối cùng thì khác và chi tiết hơn: “Giờ đây, những nếp nhăn trên khuôn mặt bi thương đã biến mất.” Trong một khoảnh khắc, mùi sạch sẽ vẫn còn tỏa ra. “Chỉ cần ngươi đừng làm quá. Lỗ tai của binh lính bọn họ biết sẽ quấy rầy ta. Vậy ngươi muốn biết cái gì. Ta sẽ. Cẩn thận hơn:” Chỉ cần ngươi giữ bí mật, chỉ sợ binh lính bọn họ biết. Tai, điều này sẽ làm phiền tôi rất nhiều. Vậy bạn muốn gì? biết rôi. Tôi sẽ thử & # 7855; “Con người hoàn chỉnh”.
Lời kết án tử hình phải chú ý đến từ ngữ và giọng điệu của trại giam, các bạn nhớ chọn từ ngữ chính xác và ngắn gọn, ví dụ: “Nghe xong câu trả lời, anh ta mới lễ phép bỏ đi. Một câu: Xin hãy nhận lời”. Dòng cuối cùng, rồi chọn một cách diễn đạt khác để thể hiện thái độ xúc phạm viên quản ngục: “… Anh ta chỉ lịch sự rút lại một câu: Tôi xin nhận hai chữ” lịch sự “này nhấn mạnh sự tôn trọng, còn” nhã nhặn “là hai. Từ này nhấn mạnh thái độ tôn trọng. “Lịch sự” nghiêng về phạm trù đạo đức. “Lịch sự” chủ yếu thể hiện thái độ cá nhân.
Theo cách nói của tử tù, mỗi khi quản ngục nói xong một lời, quản ngục “sẽ” Trận chiến để bỏ đi những mảnh kẽm đánh dấu hình vuông. ”Cuối cùng, quản ngục“ giữ im lặng trong phòng. “Ở chữ“ quản ngục ”, nghe thầy Huấn dặn dò, quản ngục chỉ vỗ tay, cúi đầu và nói câu thắt cổ. Trong văn bản cuối cùng, quản giáo cẩn thận kiểm tra chữ. Nó như muốn hỏi vài kỷ niệm .—— Thứ hai: Về nhân vật nhà thơ
Dòng cuối cùng về nhân vật nhà thơ trong vết tích chồng chất vụng về: Sau khi nghe câu chuyện cảm động trong tù, thế này Một nhà thơ nói: “Ừ, anh cứ yên tâm, tôi đang đứng. “Sau đó, anh ta ngã xuống và chạy đến trại giam của ông Huấn. Ông giáo gõ cửa một tiếng ồn ào, điên cuồng nói với tử tù rằng anh ta đã nghe rõ tiếng tim của người tù, và báo một tin không may rằng anh ta vẫn có thể. Nói chuyện với Huấn Cao về án tử hình, nhà thơ đã nghe bản án của người bị kết án và rút ra được bài học quan trọng, ông nói: “Nghe xong bài diễn văn, nhà thơ lại xúc động: Phải, anh tiếp tục yêu, Tôi đứng “bỏ chạy. Tại trại giam ông Huấn gõ cửa buồng giam, ngẫu nhiên nói với tử tù mà quản ngục miễn cưỡng kết án tử hình.” Bên ngoài, Tuân Tuấn ngay từ đầu đã không có án tử nào!7913; Ba: Về nhân vật của Huancao – dòng cuối mô tả anh ta như thế này: “Huancao thờ ơ và không nghe lời. Anh ta cúi mũi, cúi đầu và đánh người trên bệ đá.” Từ “án tử” lại chọn một cách diễn đạt khác để nói lên dũng khí của nhân vật: “Tào Hưu lạnh lùng, mũi rung, tựa đầu thang vào đất đá. Một lần hạ gục Chu Côn”. Sắc thái của hai từ “dửng dưng” và “thờ ơ” là khác nhau, việc Huấn Cao dùng từ “lạnh lùng” để miêu tả thái độ của Huấn Cao chưa chắc đã tốt hơn từ “thờ ơ”. Bởi vì từ “lạnh” thường được dùng để chỉ một người thiếu tình cảm với người hoặc vật, nhưng từ “thờ ơ” thường chỉ một người nào đó “không thể hiện sự quan tâm, thân mật, chăm sóc hoặc cảm xúc.” “…”. Câu nói cuối cùng của Huấn Cao bên bờ sông là một câu sáo rỗng: “Thưa ngài. Xét thấy mình có quyền thưởng thức những thức ăn này, Huấn luôn thản nhiên nhận rượu thịt … Tôi chỉ muốn một điều. Đây là nhà của ngài, làm ơn. Đừng làm phiền ta. “Huancao trong lời nói của quản ngục càng có khí thế cứng rắn:” Huancao bình tĩnh tiếp nhận rượu thịt, coi như công việc hắn vẫn làm trong nồi giao trước khi bị giam … .Em chỉ muốn một điều… Đây là nhà của anh, đừng giẫm lên nữa. ”-Cao Cao kiên quyết nói câu cuối cùng:“ Nghe lời, mỉm cười. Huấn Cao giữa những người tử tù tỏ ra thận trọng và bình tĩnh: “Huấn Cao yên lặng suy nghĩ một hồi rồi bật cười.” – Huấn Cao nói giọng thô bạo ở câu cuối: Các tù nhân thích nói: “Tôi cảm thấy tài năng đặc biệt của bạn.” Người kể chuyện-Thái độ của người kể chuyện Dòng cuối cùng của câu chuyện trong văn bản là khSo với thái độ của người kể trong văn bản. Điều này là hiển nhiên trong cách các ký tự được gọi. Ví dụ, người kể chuyện trong từ “quản ngục” không dùng “quản ngục” để xưng hô với Huấn Cao mà là “quản ngục”. Cùng nhau nói: “Binh lính, nói chữ’spirit ‘nghĩa là quan tàn nhẫn, nhưng đừng mong gì. Hình như người ở dưới đang thúc giục người trên mau làm chuyện xấu. Nhà tù cứ bình tĩnh … quân thất vọng, Sáu phạm nhân hơi ngạc nhiên trước thái độ của viên quản ngục, từ ngữ “bị kết án tử hình” được sửa thành: “Những người lính, khi nói đến nó”. Anh ta cất giọng “cẩn thận” để nhắc nhở cảnh sát rằng họ không thực hiện các hình thức tra tấn thông thường và những gì các tù nhân đang chờ đợi. Nhà ngục im ắng … binh lính vươn vai, nhìn nhau không hiểu. Sáu phạm nhân ngạc nhiên vì thái độ trong tù của họ “.
4. Kết luận
Dòng cuối của văn bản kết luận không chỉ khép lại dòng sự kiện mà còn mở ra nhiều câu chuyện về hành vi của nhiều nhân vật, chẳng hạn như câu chuyện của Huấn Cao bị kết án tử hình; chuyện quản ngục đổi thân để giữ thiên hạ; lịch sử nhà thơ có cốt cách, trong sáng nhưng lại sa cơ lỡ vận. Tôi nghĩ đoạn đầu dòng cuối vừa thanh lọc tâm hồn vừa gợi cảm xúc xót thương, ân hận. Cao Ca lại trở thành quản ngục, lại thành thơ, từ nơi xa đến, nảy sinh nghi kỵ, hay hỏi han nhau, dần dần quen nhau, rồi quý mến nhau rồi trở thành tri kỷ của nhau. ”Ba người nhìn nhau cảm thán, rồi là của nhau. Phần “Nhìn nhau” đã thể hiện rõ.
5. Về địa danh và giới từ
Chữ cuối của bài văn miêu tả nhà ngục xứ Đoài và kể những lời đồn thổi về Hứa Cao của người dân xứ Đoài, kẻ tử tù. Văn bản của tù nhân mô tả “Nhà tù tỉnh Sơn” và tin đồn về ông Giới từ cư dân trong tỉnh.
Câu cuối của văn bản trích một truyền thuyết cổ phương Nam: “Xưa có một người tù chữ viết rất hay …”. Ngay từ đầu truyện, sự kết hợp giữa lời tựa này và thời kỳ thần thoại tạo nên không khí huyền thoại. Tuy nhiên, Tuân Tuấn đã rút lại lời nói trước khi viết thư cho tử tù. Đó là: Ruan Laohan đã viết lại truyện ngắn “Những người tử tù. Vì vậy, nếu bạn nói,” “Những lời của người tù” in Tao Đàn năm 1938, sau đó tuyển chọn và in thành sách này. Ballon d’Or “[4], chúng ta phải thêm một tiêu đề hoặc nhiều lời giải thích lên trên tinh thần văn học để tránh những hiểu lầm nhất định.
Chúng ta thấy rằng Nhiếp Tuấn là người nổi tiếng hoặc văn hóa. Nhưng Điều này không phải lúc nào cũng vậy, hoặc ngay từ khi cầm bút đã viết được những câu văn hay, câu chữ đắt giá, tất nhiên nếu không trải qua một quá trình làm việc nghiêm túc, liên tục và bền bỉ thì Nhiếp Tuấn sẽ không tạo ra được những điều thú vị như vậy. Tài liệu.
***** — [1] Sách hướng dẫn này và các sách tham khảo khác không có cái nhìn chính xác về văn bản “Chữ người tử tù”. Một số người lầm tưởng rằng ấn bản đầu tiên của ấn bản trên Tao Đàn và của nó. Các bản in sau này vẫn còn nguyên vẹn, nếu có thay đổi thì chỉ thay đổi nhỏ, ví dụ như tác giả đổi tên truyện và giữ nguyên, hoặc lược bớt câu cuối của truyện để ý nghĩa mạnh mẽ hơn, hàm ý thấp hơn. Minh chứng như sau: new Tập 11 “Ngữ văn” và là phần chính của cẩm nang ôn tập toàn văn năm 2000, cũng như các bài phân tích khác về xuất xứ “Chữ người tử tù”, tôi chỉ viết mấy dòng sau: “Truyện ngắn Những chữ trên đường tử thần” Tựa gốc là “Dòng cuối cùng” in trên tạp chí “Tao Đàn” năm 1938, sau đó được in thành tập “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Người tử tù” [2]. (Chỉnh sửa) Tạp chí Tao Tao 1939-S và # 432; • Toàn tập phê bình văn học của NXB Tân Dân. Nhà xuất bản Văn học. Nhân đây, cũng xin lưu ý rằng Nhiếp Tuấn viết dòng cuối cùng, không phải dòng cuối cùng. Trường hợp của Thạch Lam cũng vậy. Thạch Lam viết Theo Gióng, nhưng các thế hệ sau đổi thành “Theo Dòng”. Chắc nhà xuất bản nghĩ người cũ ngày xưa viết sai?
[3] Xem Tác phẩm được sưu tầm của Ruan T, Tập 1. Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1982.
[4] Xem Tài liệu Bổ sung 11, Tập 1. Ấn bản giáo dục, 2007.