Cần văn học sử Việt Nam mới

Hoài Nam

Cho đến nay, việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc Việt Nam được phản ánh dưới dạng tác phẩm văn học sử còn kém xa so với thực tế phát triển của văn học sử. thế kỷ. Các tác phẩm lịch sử Việt Nam được biên soạn mới nhất (hai bộ sách giáo khoa văn học Việt Nam của Trường chuyên Ngữ Đại học Tổng hợp Hà Nội và Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) có tuổi thọ cao hơn hoặc thấp hơn. Trong 30 năm, trong số những công trình này, phạm vi nghiên cứu của các nhà sử học văn học chỉ dừng lại ở mốc năm 1945. Điều này có nghĩa là tất cả văn học Việt Nam trong 30 năm sau chiến tranh (1945-1975) và 25 năm sau chiến tranh (chỉ tính riêng năm 2000)), tất cả những chuyển động và sắc thái phức tạp của nó đang chờ được mô tả, và Các tác phẩm văn học và lịch sử được xác định. Tuy nhiên, việc biên soạn những tác phẩm lịch sử văn học mới này chỉ có ý nghĩa đáp ứng yêu cầu này. Điều quan trọng nhất là viết lại và viết theo nhiều cách khác nhau.

1. Cách phân biệt lịch sử văn học

Trong hầu hết (nếu có) các tác phẩm văn học ở Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt chủ yếu dựa trên quan điểm lịch sử. Lịch sử-xã hội. Những mốc son lớn trong lịch sử được mặc nhiên coi là những dấu mốc lớn trong lịch sử văn học: người ta đã “tạc” nên lịch sử văn học dựa trên những sự kiện chính trị xã hội lớn, giống như trong chính sách xã hội. Mối liên hệ của sự thay đổi là văn học cũng thay đổi ngay lập tức. Sự khác biệt này rõ ràng không giúp ích gì cho việc nhận thức quá trình văn học. Nó không coi sự tồn tại tương đối độc lập của lịch sử văn học so với lịch sử xã hội. Văn học phải được đo bằng hệ thống thước đo riêng của nó: văn học và quan niệm thẩm mỹ, hệ thống chuyên đề, chủ đề, hệ thống hình tượng nhân vật trung tâm, hệ thống thể loại và ngôn ngữ văn học cuối cùng. Khi năm “quan sát” này thay đổi, tác giảNghiên cứu lịch sử mới có đủ cơ sở xác đáng để xác định thời kỳ phân kỳ là sự phát triển không ngừng của văn học, nếu không, sự phân kỳ sẽ bị giảm đi bởi …!

2. Các cách nhìn khác nhau về giá trị văn học

Nhận thức chung, truyện văn học luôn là “bảng tổng hợp” giá trị văn học. Dù muốn hay không, những người viết lịch sử văn học vẫn chưa tìm ra xu hướng, trào lưu, tác giả, tác phẩm trong lịch sử văn học. Câu hỏi là: nhắm mục tiêu có điều kiện nào được sử dụng? Đọc lại các tác phẩm lịch sử Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm Việt Nam được biên soạn ở miền Bắc sau năm 1954, người ta thấy nổi lên hai tiêu chuẩn là hiện thực và yêu nước. Trên thực tế, tiêu chuẩn của thực tế vẫn tương đối rõ ràng, nhưng tiêu chuẩn của lòng yêu nước dường như khá mơ hồ. Chúng ta hãy lấy một ví dụ trực tiếp: các tác phẩm ra đời ở các đô thị bị tạm chiếm trong chiến tranh (ở Hà Nội từ năm 1945 đến năm 1954, và ở các đô thị miền Nam từ năm 1945 đến năm 1975) cũng có nhiều tác phẩm có nội dung yêu nước, nhưng những Văn học dã sử dường như không tồn tại trong mắt các nhà viết sử (đặc biệt là các tác giả của hai cuốn sách giáo khoa văn học Việt Nam nói trên). Vì vậy, để có một “bảng tổng hợp” phản ánh đúng giá trị của lịch sử văn học dân tộc, người viết lịch sử văn học phải biết tiêu chuẩn định vị là “đa âm”. Yêu cầu này đòi hỏi một thái độ cởi mở và rộng lượng trong việc trân trọng giá trị của văn học. Nhưng xin hãy suy nghĩ, ở đây phải bổ sung thêm hai yêu cầu: 1 / Làm nổi bật các khuynh hướng, trào lưu, tác giả, tác phẩm từ thực tế đóng góp vào sự phát triển tư tưởng nghệ thuật. Văn học nghệ thuật dân tộc; 2 / Đừng ngại viết điểm dừng và giới hạn của các giá trị văn học dân tộc-có như vậy, sự công nhận mới có thể gọi là hoàn chỉnh, cũng thể hiện sức khỏe tốt, không &# 259; Có sức mạnh của sự cẩu thả.

3. Một cách khác để xác định tọa độ nghiên cứu văn học

Qua việc đọc các tác phẩm văn học sử Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận thấy nghiên cứu văn học thậm chí chỉ được đóng khung trong văn học. Đây là lý do chính để gây ấn tượng với mọi người, đó là các tác phẩm của các tác giả lịch sử văn học chỉ miêu tả và bình luận các khuynh hướng, trào lưu, tác giả, tác phẩm. Để có thể thấy được tính linh hoạt của văn học dân tộc Việt Nam, cần đặt nó ở một bình diện rộng hơn, nhất là trong mối quan hệ với hệ tư tưởng chi phối sâu sắc đời sống tinh thần. Từ toàn bộ xã hội (ví dụ, Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo trong văn học Việt Nam thời Trung đại). Mặt khác, các nhà viết sử cũng cần quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa văn học Việt Nam với các nền văn học khác trong khu vực và trên thế giới. Vào thời Trung đại, văn học Việt Nam xâm nhập vào lĩnh vực văn học Trung Quốc cùng với văn học Nhật Bản và Hàn Quốc, trung tâm là văn học Trung Quốc. Thời cận đại và cận đại, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp, và sau đó là văn học Nga Xô Viết. Giờ đây, khi thế giới phẳng, văn học Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để cùng lúc đón gió từ mọi phương trời. Trong trường hợp này, nếu nghiên cứu văn học Việt Nam chỉ tồn tại trong văn học Việt Nam, thì việc cắt bỏ nghiên cứu văn học Việt Nam khỏi cội nguồn “quan hệ quốc tế” sẽ là chính nghiên cứu. Ý nghĩa đơn phương, tất nhiên, tất yếu sẽ đi vào vết xe đổ mà các nhà nghiên cứu rất muốn tránh. Nói cách khác, để đáp ứng yêu cầu “khác với cách xác định tọa độ nghiên cứu văn học” trong các tác phẩm lịch sử mới mong đợi, người viết sử còn phải là nhà nghiên cứu văn hóa. Và những người viết so sánh.

Nhu cầu công cộngCó một tổng thể mới, đầy đủ hơn, khoa học và thuyết phục hơn về văn học và lịch sử Việt Nam. Một số bình luận mang tính xúc phạm và được coi là những băn khoăn về những vấn đề cơ bản của nền văn học nước nhà.

Leave Comments